The post Sắt thép Việt Nam trước nguy cơ mất thị trường xuất khẩu vì bị kiện appeared first on CDM Group.
]]>Như thông tin đã đưa, chỉ trong vòng một tuần, phía Thái Lan đã liên tiếp đưa ra ba vụ điều tra chống bán phá giá (AD) đối với các sản phẩm tôn, thép các loại nhập từ nước ngoài, trong đó có Việt Nam; chưa kể trước đó nhiều thị trường xuất khẩu khác trong khu vực cũng khởi xướng điều tra AD với sản phẩm tôn của Việt Nam.
Điều này đã khiến các doanh nghiệp của Việt Nam thấp thỏm lo âu vì nguy cơ mất thị trường xuất khẩu như Thái Lan, Malaysia, Indonesia… Việc mất đi những thị trường này sẽ khiến cho nhiều doanh nghiệp nội càng trở nên khốn khó hơn, bởi thị trường nội địa nhiều năm nay đã rơi vào tình trạng cung vượt cầu. Đó là còn chưa kể đế các doanh nghiệp thép nội còn phải cạnh tranh khốc liệt với sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan và với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại thị trường nội địa.
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), trong gần 2 triệu tấn tôn kẽm và phủ màu sản xuất 8 tháng đầu năm 2015 của toàn ngành, lượng tôn các loại xuất khẩu khoảng 600.000 tấn, chiếm hơn 50% cơ cấu sản phẩm của tổng lượng thép xuất khẩu toàn ngành hiện nay, chủ yếu tập trung ở các nước ASEAN. Bởi vậy, khi một số thị trường các nước trong khu vực liên tục áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại khiến cho các sản phẩm này khó xuất khẩu, mà nếu có thì mức giá bị áp sẽ làm triệt tiêu hoàn toàn khả năng cạnh tranh sản phẩm tôn thép của Việt Nam trên thị trường.
Theo ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), với tình trạng các sản phẩm của Việt Nam liên tiếp vướng vào các vụ kiện như hiện nay, thì năm 2016 sẽ là một năm vô cùng gay go của các doanh nghiệp ngành tôn lạnh và mạ màu, chưa kể sản phẩm tôn Trung Quốc được nhập ồ ạt về Việt Nam.
Theo các chuyên gia trong ngành này thì đây cũng là thời điểm thích hợp để các doanh nghiệp tổ chức lại sản xuất, giảm giá thành và nâng các chất lượng sản phẩm nhằm tìm thị trường xuất khẩu mới. Tuy nhiên, việc xây dựng được một thị trường mới không hề đơn giản, kèm theo đó là tốn kém chi phí. Do vậy việc mất thị trường chắc chắn có ảnh hưởng đến đầu ra sản xuất của doanh nghiệp.
Mới đây, Hiệp hội Thép Việt Nam đã kiến nghị lên Chính phủ đưa vụ việc điều tra tự vệ tôn lạnh của Chính phủ Indonesia ra giải quyết tranh chấp thương mại tại WTO để đảm bảo lợi ích và giữ được thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp. Đây cũng là động thái tích cực của Chính phủ Việt Nam sẵn sàng ủng hộ tích cực quyền lợi của các doanh nghiệp có mặt hàng xuất khẩu trước các cáo buộc vi phạm trong hoạt động tự vệ thương mại của các nước nhập khẩu.
The post Sắt thép Việt Nam trước nguy cơ mất thị trường xuất khẩu vì bị kiện appeared first on CDM Group.
]]>The post Việt Nam tiếp tục nhập siêu sắt thép appeared first on CDM Group.
]]>Theo đó, trong tháng 1 vừa qua, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng sắt thép của nước ta chỉ thu về có 148 triệu USD, trong khi phải bỏ tới 710 triệu USD để nhập khẩu 1,3 triệu tấn mặt hàng này.
Được biết, năm 2016 kim ngạch sắt thép nhập khẩu ước tính đạt 8 tỉ USD, tăng 7,3% so với năm 2015. Các thị trường cung cấp sắt thép chính cho Việt Nam trong năm 2016 là Trung Quốc chiếm 55,1%, Nhật Bản chiếm 14,6%, Hàn Quốc chiếm 12,8% và Đài Loan chiếm 8,9% tổng kim ngạch nhập khẩu cả năm. Như vậy, Việt Nam tiếp tục nhập khẩu mạnh sắt thép như trước đó.
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia kinh tế nhận định thì việc nhập khẩu lượng lớn thép Trung Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục là mối đe dọa với thép Việt. Bởi vậy, để cứu ngành thép trong nước, Bộ Công Thương đã thực hiện áp dụng các biện pháp tự vệ với các loại thép nhập khẩu với việc áp thuế 23,3% với phôi thép và 14,2% với thép dài.
The post Việt Nam tiếp tục nhập siêu sắt thép appeared first on CDM Group.
]]>The post Công nghiệp khí đặt mục tiêu khai thác đạt 21 tỷ m3/năm appeared first on CDM Group.
]]>Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035. Mục tiêu nhằm phát triển lĩnh vực công nghiệp khí hoàn chỉnh, đồng bộ tất cả các khâu, từ khai thác – thu gom – vận chuyển – chế biến – dự trữ – phân phối khí và xuất nhập khẩu sản phẩm khí trên toàn quốc; đảm bảo thu gom 100% sản lượng khí của các lô/mỏ mà PVN và các nhà thầu dầu khí khai thác tại Việt Nam; phấn đấu sản lượng khai thác khí cả nước đạt 17 – 21 tỷ m3/năm giai đoạn 2026 – 2035.
Việt Nam phấn đấu sản lượng khai thác khí cả nước đạt 17 – 21 tỷ m3/năm giai đoạn 2026 – 2035. (Ảnh minh họa: KT)
Về phát triển thị trường tiêu thụ khí, tiếp tục phát triển thị trường điện là thị trường trọng tâm tiêu thụ khí (bao gồm LNG nhập khẩu) với tỷ trọng khoảng 70 – 80% tổng sản lượng khí, đáp ứng nguồn nhiên liệu khí đầu vào để sản xuất điện; phát triển lĩnh vực hóa dầu từ khí, tăng cường đầu tư chế biến sâu khí thiên nhiên để nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm khí, tạo ra các nguyên, nhiên, vật liệu để phục vụ phát triển sản xuất công nghiệp trong nước, hướng tới xuất khẩu, giảm tỷ trọng nhập siêu.
Tiếp tục duy trì và mở rộng hệ thống phân phối khí cho các hộ tiêu thụ công nghiệp, giao thông vận tải, sinh hoạt đô thị nhằm mục đích bảo vệ môi trường và nâng cao giá trị sử dụng của khí; phát triển đồng bộ hệ thống phân phối khí thấp áp và hệ thống phân phối khí nén thiên nhiên (CNG) làm tiền đề để phát triển hệ thống phân phối khí cung cấp cho giao thông vận tải.
Ngành công nghiệp khí phấn đấu phát triển thị trường khí với quy mô đạt 23 – 31 tỷ m3/năm vào giai đoạn 2026 – 2035. Để đạt được các mục tiêu trên, ngành công nghiệp khí đã vạch ra định hướng phát triển cho từng khu vực.
Cụ thể, Khu vực Bắc Bộ nghiên cứu các giải pháp, đẩy mạnh việc thu gom khí từ các mỏ nhỏ, nằm phân tán trong khu vực nhằm tăng cường khả năng cung cấp khí cho các hộ tiêu thụ công nghiệp khu vực Bắc Bộ, từng bước nghiên cứu, triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG để duy trì khả năng cung cấp khí cho các hộ tiêu thụ công nghiệp khi nguồn khí khu vực Bắc Bộ suy giảm, phát triển các nhà máy điện sử dụng LNG theo Quy hoạch điện lực quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Khu vực Trung Bộ tích cực đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thu gom, vận chuyển, xử lý khí từ mỏ khí Cá Voi Xanh để cung cấp cho các nhà máy điện sử dụng khí thuộc khu vực Trung Bộ theo Quy hoạch điện lực quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; phát triển công nghiệp hóa dầu sử dụng khí từ mỏ khí Cá Voi Xanh sau khi đã đáp ứng đủ nhu cầu khí cho các nhà máy điện; phát triển hệ thống phân phối khí thấp áp, sản xuất CNG/LNG quy mô nhỏ cấp cho các hộ tiêu thụ công nghiệp trong khu vực.
Khu vực Đông Nam Bộ đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ để đảm bảo duy trì đáp ứng nhu cầu tiêu thụ khí trong khu vực; triển khai xây dựng hệ thống kho, cảng nhập khẩu LNG để bổ sung cho nguồn khí trong nước suy giảm và cung cấp cho các nhà máy điện theo Quy hoạch điện lực quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Khu vực Tây Nam Bộ hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thu gom, vận chuyển khí; xây dựng cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG để duy trì khả năng cung cấp cho các hộ tiêu thụ, phát triển các nhà máy điện sử dụng LNG mới./.
The post Công nghiệp khí đặt mục tiêu khai thác đạt 21 tỷ m3/năm appeared first on CDM Group.
]]>The post TP.HCM phát triển 4 ngành công nghiệp trọng yếu: Nâng chất ngang tầm quốc tế appeared first on CDM Group.
]]>Thu hút nhiều dự án công nghệ mới
Theo Sở Công thương TP.HCM, bình quân 2 năm 2011-2012, ngành công nghiệp cơ khí trên địa bàn đạt mức tăng trưởng 13,4%, tuy thấp hơn giai đoạn 2006 – 2010 nhưng vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của công nghiệp TP. Do đó, tỷ trọng ngành cơ khí giữ vững được xu hướng tăng cao dần từ 15,3% (năm 2005) lên 17,1% (năm 2012) trong cơ cấu ngành công nghiệp TP.
Sản xuất sản phẩm cơ khí chính xác kỹ thuật cao tại TCty Công nghiệp Sài Gòn.
Đáng chú ý, cơ khí được xác định là một trong 4 ngành công nghiệp trọng yếu, có vai trò lớn (chiếm 20 – 21% giá trị gia tăng trong công nghiệp) trong kinh tế nói chung và công nghiệp TP nói riêng.
Trong đó, ngành cơ khí chế tạo đang thu hút được những dự án đầu tư lớn sử dụng thiết bị, công nghệ mới như: cơ khí tự động CNC, NC… kết hợp với phần mềm điều khiển, thiết kế, tính toán tự động: PLC, Simetic, SAP… ứng dụng trong sản xuất, chế tạo.
Đặc biệt, trong lĩnh vực cơ khí khuôn mẫu, các công nghệ tiên tiến gồm: công nghệ đúc mẫu chảy, công nghệ nhựa Furan… đã được ứng dụng phổ biến để sản xuất thay thế hàng nhập khẩu. Sản phẩm làm ra có chất lượng ổn định, giá thành khoảng 50 – 70% sản phẩm nhập khẩu cùng loại cung cấp cho các ngành chế biến thực phẩm, xay xát, bào chế dược phẩm…
Tương tự, ở ngành công nghiệp hóa chất, trong giai đoạn 2011 – 2012, giá trị sản xuất ngành hóa chất tăng 8,8%, thấp hơn bình quân giai đoạn 2006 – 2010 (đạt 14,3%/năm) do những khó khăn chung của nền kinh tế.
Tuy nhiên, tỷ trọng ngành hóa chất trong công nghiệp thành phố vẫn tiếp tục tăng từ 18,1% (năm 2005) lên 20% (năm 2012) nhờ có tốc độ tăng trưởng cao hơn toàn ngành công nghiệp. Chiếm khoảng 39 – 45% sản lượng cả nước, công nghiệp hóa chất thành phố đã và đang phát triển theo hướng bảo vệ môi sinh, môi trường và nâng cao giá trị gia tăng.
Thiết bị, công nghệ mới (tháp sấy phun công suất lớn, tẩy quang học, đóng gói tự động,…) trong lĩnh vực hóa mỹ phẩm như: bột giặt, chất tẩy rửa, kem dưỡng da, nước xả vải… không ngừng được đầu tư cải tiến và được đánh giá ngang hàng với các nước trong khu vực.
Nhiều sản phẩm mới như sơn chống thấm; sơn tàu biển, giàn khoan; sơn chịu nhiệt, ắc quy khô, bột giặt có chứa chất tẩy natri tripolyphôtphát, chất tẩy quang học, enzym…) đã được nghiên cứu và sản xuất. Các sản phẩm săm lốp xe máy, ô tô không chỉ chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn đẩy mạnh xuất khẩu.
Tạo nguồn hàng, ổn định kinh tế
Giám đốc Sở Công thương TP.HCM Nguyễn Văn Lai cho biết, 2 trong 4 ngành công nghiệp trọng yếu của TP là công nghiệp điện tử – công nghệ thông tin và chế biến lương thực tinh, thực phẩm cũng đang có nhưng chuyển biến đáng kể.
Cụ thể, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong quy mô sản xuất công nghiệp trên địa bàn nhưng ngành điện tử – công nghệ thông tin thành phố chiếm lĩnh trên 27% thị trường cả nước.
Với tốc độ tăng trưởng bình quân 4,6%/năm trong 2 năm 2011 – 2012, thấp hơn giai đoạn 2006 – 2010 (tăng 13,2%/năm), thấp hơn toàn ngành (tăng 8,06%), tỷ trọng ngành điện tử – công nghệ thông tin đạt 3,6% (năm 2012), thấp hơn mức 3,9% của năm 2010 nhưng vẫn cao hơn mức tỷ trọng 3,5% đạt được trong năm 2005.
Với sự chuẩn bị về hạ tầng, Công viên Phần mềm Quang Trung, Khu Công nghệ cao TP đã thu hút được nhiều dự án lớn của các tập đoàn quốc tế như Intel, Nidec… sản xuất sản phẩm bán dẫn, công nghệ vi mạch, bo mạch điện tử.
Ngoài ra, TP còn thu hút được nhiều dự án sản xuất, gia công phần mềm, sản xuất sản phẩm sử dụng năng lượng mặt trời thay thế năng lượng điện (pin năng lượng mặt trời, thiết bị chiếu sáng, thiết bị gia dụng…) lắp đặt trong các tòa nhà thông minh nhằm hưởng ứng chủ trương tiết kiệm năng lượng.
Đối với ngành công nghiệp chế biến tinh lương thực, thực phẩm – một trong những ngành công nghiệp chủ lực, chiếm hơn 22% giá trị sản xuất trước đây phần lớn là gia công, sơ chế sản phẩm.
Tuy nhiên, từ năm 2006, TP đã định hướng phát triển ngành theo hướng đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ, sản xuất sản phẩm tinh chế, chất lượng cao, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng lớn.
Do đó, tốc độ tăng trưởng sản xuất có xu hướng chậm dần: giai đoạn (2006 – 2010) đạt 8,9%/năm và 2 năm gần đây tăng bình quân 8,5%; tỷ trọng cũng có xu hướng giảm dần và được giữ vững ở mức 16 – 16,5% trong cơ cấu công nghiệp TP.
“Trong đầu tư, TP cũng đã hạn chế cấp phép các dự án đầu tư theo chiều rộng; khuyến khích các dự án đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và ứng dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất sản phẩm chế biến sâu, chế biến tinh, ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất để đa dạng hóa mặt hàng, tăng sản lượng, phẩm chất và giảm giá thành sản phẩm. Qua đó, nhiều dây chuyền công nghệ tự động được đưa vào sản xuất, cho ra đời các sản phẩm chất lượng cao, giá thành phù hợp”, ông Nguyễn Văn Lai phân tích.
Trên thực tế, các thương hiệu Việt dần chiếm lĩnh thị trường nội địa và xuất khẩu như Vinamilk, Kinh Đô, Phạm Nguyên, Hanco, Bia Saigon, Vocarimex, Tường An, Vissan, Ba Huân, Huỳnh Gia Huynh Đệ…
Ngoài sự phát triển của ngành, 4 ngành công nghiệp trọng yếu nói trên của TP còn góp phần quan trọng trong việc tạo nguồn hàng, bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định đời sống của nhân dân.
The post TP.HCM phát triển 4 ngành công nghiệp trọng yếu: Nâng chất ngang tầm quốc tế appeared first on CDM Group.
]]>